Nguyên nhân và triệu chứng thường gặp của bệnh viêm đài bể thận

Viêm đài bể thận là một dạng viêm thận và bể thận, về lâu dài bệnh có thể chuyển thành mạn tính và gây nên những biến chứng nguy hiểm, nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong.
18/09/2021 13:45
tim-hieu-benh-viem-dai-be-than-tu-b-s-truong-duoc-sai-gon

Viêm đài bể thận là bệnh gì?

Viêm đài bể thận cấp là một dạng nhiễm khuẩn cấp tính các đài thận, bể thận, niệu quản và nhu mô thận hay còn gọi là nhiễm khuẩn đường tiết niệu trên. Nhiễm khuẩn cấp tính do vi khuẩn gây nên theo đường ngược dòng từ bàng quang lên niệu quản rồi đến đài bể thận, hoặc do đường máu đi đến khi có nhiễm trùng huyết.

Bác sĩ Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn viêm đài bể thận mạn là một dạng tổn thương mạn tính ở nhu mô, ở mô kẽ của thận, do hậu quả của quá trình nhiễm khuẩn từ đài-bể thận vào thận kéo dài tái phát nhiều lần, làm hủy hoại xơ hoá tổ chức thận dẫn đến suy thận.

Viêm đài bể thận cấp tái phát nhiều lần, hoặc tình trạng suy thận cấp không được điều trị thỏa đáng sẽ dẫn đến tình trạng viêm thận bể thận mạn tính và suy thận mạn tính.

Viêm đài bể thận cấp tính với những triệu chứng nhiễm trùng rầm rộ, bệnh đáp ứng khá tốt với điều trị kháng sinh, nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời bệnh có thể khỏi hẳn sau 10 đến 14 ngày. Bệnh nếu không được điều trị đúng cách có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm như: áp xe thận và quanh thận, nhiễm khuẩn huyết, suy thận cấp, hoại tử nhú thận, viêm thận- bể thận mạn tính, suy thận mạn. Dù là biến chứng nào cũng đều có thể gây tử vong nếu không được điều trị đúng mực, có thể rơi và tình trạng sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng, suy thận cấp hay dần dần suy giảm chức năng thận và cuối cùng là suy thận mạn. Vì vậy việc loại bỏ các yếu tố nguy cơ, điều trị theo nguyên nhân, tuân thủ điều trị triệt để là vô cùng quan trọng, giúp giảm nguy cơ chuyển từ viêm đài bể thận cấp thành viêm đài bể thận mạn, bên cạnh đó còn giảm được các biến chứng của bệnh gây ra.

Nguyên nhân gây bệnh viêm đài bể thận là do đâu?

Nguyên nhân gây bệnh viêm đài bể thận thường do vi khuẩn gram âm: thường gặp nhất là E. Coli, sau đó là Klebsiella, Proteus mirabilis, Enterobacter. Vi khuẩn Gram (+): ít gặp dưới 10%: Enterococcus, Staphylococcus…

Nguyên nhân theo đường vào:

Nhiễm khuẩn ngược dòng: do vi khuẩn theo con đường tiết niệu đi ngược lên thận gây viêm đài bể thận mạn; bệnh gặp cả nam và nữ do vệ sinh không đúng cách, hoặc do can thiệp các thủ thuật thăm khám như: soi bàng quang, soi niệu đạo...ở nam giới trên 60 tuổi, do u xơ tiền liệt tuyến làm nước tiểu ứ đọng trong bàng quang là yếu tố thuận lợi gây viêm đàibể thận mạn tính ngược dòng.

Nhiễm khuẩn theo đường máu: tỷ lệ nhiễm khuẩn theo đường máu thấp hơn nhiều so với nhiễm khuẩn ngược dòng nhưng lại rất quan trọng, khi trong máu có vi khuẩn (xuất phát bất cứ từ ổ nhiễm khuẩn nào của cơ thể) cũng dễ gây nhiễm khuẩn ở thận, nhất là khi trên đường niệu có ứ tắc và tổn thương.

Nhiễm khuẩn theo đường bạch huyết: ít gặp hơn so với nhiễm khuẩn theo đường máu, vi khuẩn ở đại tràng có thể theo hệ thống bạch huyết vào hệ tiết niệu rồi vào thận.

Triệu chứng thường gặp của bệnh viêm đài bể thận là gì?

Triệu chứng viêm đài bể thận xuất hiện trong giai đoạn sớm với các biểu hiện:

Sốt cao đột ngột, rét run, thể trạng suy giảm nhanh chóng, môi khô nứt nẻ, lưỡi bẩn…

Đau tức ở hố sườn lưng một bên hoặc 2 bên, có khi đau âm ỉ liên tục vùng thắt lưng hay quặn thận kiểu sỏi tiết niệu: đau dữ dội vùng thắt lưng, lan xuống bộ phận sinh dục, cảm giác đau tăng lên khi thay đổi tư thế hoặc sau lao động nặng.

Hội chứng bàng quang: biểu hiện rối loạn tiểu tiện: đái buốt, đái rắt (mót đái, phải rặn liên tục), đái ra máu, đái đục, đái mủ

Chán ăn, buồn nôn, nôn, bụng trướng, cơ thể suy nhược

Bệnh điều trị muộn hoặc không đúng cách sẽ dễ tái phát, chuyển thành mạn tính, gây các biến chứng nguy hiểm như suy thận, hoại tử núm thận, ứ mủ thận, nhiễm khuẩn huyết, tăng huyết áp... có thể dẫn đến tử vong.

IMG_0801

Điều trị bệnh viêm đài bể thận?

Điều trị bằng kháng sinh:

Kháng sinh đường uống: chỉ định khi bệnh nhân viêm đài bể thận không có biến chứng trong 7-14 ngày nếu triệu chứng không nặng. Kết hợp thuốc giảm đau chống co thắt. Nếu tình trạng lâm sàng không được cải thiện (hội chứng nhiễm khuẩn rõ, vẫn sốt, tiểu đục, đau, mất nước...), bệnh nhân sẽ được chuyển vào điều trị nội trú.

Kháng sinh đường tiêm: Chỉ định khi bệnh nhân bị nhiễm khuẩn nặng

Dược sĩ Cao đẳng Dược Sài Gòn cho biết có thể sử dụng thuốc phối hợp

Bù đủ dịch bằng đường uống và/hoặc đường truyền tĩnh mạch: đảm bảo lượng nước tiểu > 50 ml/giờ.

Giảm đau, giãn cơ trơn khi đau

Lê Khanh - Sông Cấm

comment Bình luận

largeer