Chưa có cơ sở khoa học chứng minh nước giải khát có đường là nguyên nhân chính của bệnh thừa cân béo phì và tiểu đường

Mục tiêu chính của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là trong bối cảnh thừa cân, béo phì đang gia tăng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng chưa có cơ sở khoa học chứng minh nước giải khát có đường là nguyên nhân chính của bệnh thừa cân béo phì và tiểu đường.
06/06/2025 20:04

Trong bối cảnh Quốc hội đang xem xét Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), đề xuất đưa nước giải khát (NGK) có đường vào diện chịu thuế TTĐB đang thu hút nhiều ý kiến trái chiều. Theo dự thảo mới nhất, NGK có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam với hàm lượng đường trên 5g/100ml sẽ chịu thuế suất 8% từ năm 2027 và 10% từ năm 2028. Tuy nhiên, cả giới chuyên gia lẫn nhiều đại biểu Quốc hội đều cho rằng chính sách này cần được cân nhắc kỹ lưỡng và phải dựa trên cơ sở khoa học rõ ràng, minh bạch.

Mục tiêu chính của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đặc biệt trong bối cảnh tỷ lệ thừa cân, béo phì đang có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên, đề xuất bổ sung nước giải khát (NGK) có đường vào diện chịu thuế TTĐB đang vấp phải nhiều ý kiến phản biện từ giới chuyên gia và đại biểu Quốc hội. Các ý kiến cho rằng chưa đủ cơ sở khoa học, chưa có bằng chứng thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế đáng tin cậy để khẳng định NGK có đường là nguyên nhân chính gây béo phì, tiểu đường; cũng như chưa có cơ sở vững chắc cho thấy việc đánh thuế sẽ kiểm soát hiệu quả tình trạng này.

khang-dinh-can-cu-ap-thue-tieu-thu-dac-biet-voi-nuoc-giai-khat-co-duong1749020505-3470

 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiến hành họp và cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi)

Theo dự thảo mới nhất, các loại NGK có hàm lượng đường trên 5g/100ml theo Tiêu chuẩn Việt Nam sẽ chịu thuế suất 8% từ năm 2027 và 10% từ năm 2028. Tuy nhiên, chính sách này đang đặt ra nhiều câu hỏi lớn về tính khoa học, thực tiễn và hiệu quả lâu dài.

Thống kê của Bộ Y tế và Viện Dinh dưỡng quốc gia cho thấy, tỷ lệ trẻ em béo phì ở Việt Nam tăng từ 8,5% năm 2010 lên 19% năm 2020. Dù tăng nhanh, nhưng tỷ lệ này vẫn được đánh giá là thấp so với mặt bằng khu vực và thế giới – Việt Nam đứng thứ 200 về béo phì người trưởng thành và thứ 137 về béo phì trẻ em. WHO và Bộ Y tế đều khẳng định, thừa cân, béo phì là kết quả của nhiều yếu tố phối hợp: chế độ ăn thiếu hợp lý, thiếu vận động thể chất, yếu tố di truyền, môi trường sống, thói quen sinh hoạt – chứ không chỉ do tiêu thụ NGK có đường.

Đáng chú ý, khảo sát của Viện Dinh dưỡng năm 2018 cho thấy học sinh thành thị – nhóm có tỷ lệ béo phì cao hơn – lại có mức tiêu thụ NGK thấp hơn học sinh nông thôn. Trong khi đó, hành vi ít vận động, ngồi lâu trước màn hình, thời gian tĩnh tại... lại có mối tương quan rõ rệt hơn với tỷ lệ thừa cân, béo phì. Các số liệu này cho thấy, không có mối liên hệ trực tiếp và duy nhất giữa NGK có đường với tình trạng TCBP.

Bên cạnh đó, kinh nghiệm quốc tế cũng không cung cấp đủ bằng chứng thuyết phục cho thấy việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt với NGK có đường sẽ kiểm soát hiệu quả thừa cân, béo phì. Tại các quốc gia như Chile, Mexico, Bỉ – nơi đã áp dụng sắc thuế này – tỷ lệ béo phì vẫn tiếp tục tăng. Trong khi đó, các nước như Nhật Bản – không áp thuế NGK – lại có tỷ lệ béo phì thấp nhất thế giới, nhờ tập trung vào giáo dục dinh dưỡng và thay đổi hành vi.

Một lo ngại khác là việc áp thuế chỉ vào NGK có đường, trong khi không kiểm soát các sản phẩm khác cũng chứa đường ở mức cao (trà sữa, nước mía, chè, bánh kẹo...) sẽ dẫn đến bất bình đẳng trong chính sách và làm méo mó hành vi tiêu dùng. Người tiêu dùng có thể chuyển sang sử dụng đồ uống pha chế tại chỗ – vốn không kiểm soát được hàm lượng đường – làm giảm hiệu quả kiểm soát calo đầu vào.

Về mặt kinh tế, theo báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), nếu áp thuế 10% từ năm 2028, GDP có thể giảm tới 0,448%, tương đương 42.570 tỷ đồng; nếu áp thuế 5%, GDP cũng sẽ giảm 0,288% (khoảng 27.374 tỷ đồng). Điều này sẽ kéo theo giảm thu nhập người lao động, thu hẹp sản xuất và tác động lan tỏa đến hơn 20 ngành liên quan trong chuỗi cung ứng.

PGS.TS Nguyễn Văn Việt – Chủ tịch Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam – nhấn mạnh rằng ngành đồ uống hiện đóng góp hơn 60.000 tỷ đồng/năm cho ngân sách, tạo hàng triệu việc làm. Nếu áp thuế quá nhanh, không dựa trên cơ sở khoa học rõ ràng, chính sách có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến đà phục hồi của ngành sau đại dịch và các cú sốc toàn cầu.

Tại nghị trường Quốc hội, nhiều đại biểu cũng thể hiện sự thận trọng. Đại biểu Cầm Thị Mẫn (Thanh Hóa) nhấn mạnh việc đánh thuế cần được đánh giá đầy đủ tác động tới chuỗi ngành, bao gồm nông dân, doanh nghiệp, bán lẻ, khách sạn, du lịch. Đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung (Thái Bình) đề nghị cần có nghiên cứu độc lập, công khai minh bạch để đảm bảo đồng thuận xã hội. Trong khi đó, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng việc chỉ đánh thuế với NGK mà không áp với các sản phẩm khác cũng chứa đường là thiếu công bằng.

Nhiều ý kiến đã kiến nghị cần xây dựng lộ trình phù hợp, ví dụ: từ năm 2028 áp thuế 5%, tăng lên 8% năm 2029 và 10% từ 2030. Bên cạnh đó, có thể phân loại mức thuế theo hàm lượng đường, tạo động lực để doanh nghiệp giảm đường trong sản phẩm thay vì đánh đồng tất cả.

Đại biểu Hoàng Đức Thắng (Quảng Trị) ví von “Bốc thuốc thì phải đúng bệnh”, nhấn mạnh cần ưu tiên truyền thông thay đổi hành vi, chế độ ăn uống, lối sống, thay vì chỉ dùng biện pháp hành chính như đánh thuế. Đại biểu Lê Thị Song An (Long An) cho rằng hiệu quả cải thiện sức khỏe từ chính sách thuế là chưa được chứng minh toàn diện, trong khi lại có thể tạo gánh nặng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, người tiêu dùng thu nhập thấp.

Theo các đại biểu, cần đánh giá giá toàn diện và cân nhắc kỹ lưỡng lộ trình khi áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng mới – nước giải khát có đường, chỉ bổ sung khi đã có đủ các bằng chứng, cơ sở khoa học, nghiên cứu, thực tiễn và đánh giá đầy đủ. Là mặt hàng mới bổ sung vào đối tượng chịu thuế TTĐB, theo nghiên cứu đánh giá tác động, thông lệ quốc tế, kiến nghị cân nhắc lộ trình và thuế suất hợp lý hơn giúp doanh nghiệp và thị trường thích nghi, điều chỉnh. Cụ thể, kiến nghị cân nhắc kỹ lưỡng lộ trình: Từ 2028: áp thuế suất 5%; Từ 2029: 8% và từ 2030: 10%.

Với mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025 và hai con số giai đoạn 2026–2030, Việt Nam đang rất cần chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi. Việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường – một mặt hàng mới – cần được đánh giá đa chiều, toàn diện và khoa học. Không nên vội vàng áp dụng chính sách khi chưa xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa tiêu dùng NGK có đường và tình trạng sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là khi hiệu quả của công cụ thuế này vẫn còn nhiều tranh cãi trên thế giới.

comment Bình luận