Thông tin về phòng, chống dịch COVID-19 sau tuyên bố của WHO ngày 5/5/2023 “COVID-19 không còn là tình trạng khẩn cấp về y tế toàn cầu”

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Việt Nam và Bộ Y tế cung cấp thông tin về phòng, chống dịch COVID-19 sau tuyên bố của WHO ngày 5/5/2023 “COVID-19 không còn là tình trạng khẩn cấp về y tế toàn cầu”.
11/05/2023 18:14

Tiến sĩ Angela Pratt - Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam đã có những chia sẻ về vấn đề này như sau:

Những lý do nào dẫn tới WHO tuyên bố COVID-19 không còn là tình trạng y tế công cộng khẩn cấp gây quan ngại toàn cầu (PHEIC)? Với tuyên bố này, có phải là đại dịch COVID-19 đã chấm dứt? Vậy thì có nên coi COVID-19 như bệnh cúm mùa? 

Tôi xin giải thích một chút về bối cảnh tại sao WHO có tuyên bố về việc chấm dứt tình trạng khẩn cấp về y tế toàn cầu với COVID-19.

WHO công bố COVID-19 là tình trạng y tế công cộng khẩn cấp gây quan ngại quốc tế vào ngày 30/1/2020. Tại thời điểm đó, có khoảng gần 100 ca mắc ở các quốc gia khác ngoài Trung Quốc và chưa ghi nhận ca tử vong. Và như chúng ta đã biết, nhiều đợt bùng phát đã xảy ra sau đó và trong 3,5 năm qua. Theo đề xuất của Ủy ban khẩn cấp của WHO, sự bùng phát các ca bệnh có đủ yếu tố cầu thành Tình trạng y tế công cộng khẩn cấp gây quan ngại quốc tế, trên cơ sở sự bùng phát các ca mắc là một sự kiện chưa từng có tiền lệ đe dọa an ninh y tế công cộng toàn cầu, có nguy cơ lây lan ra nhiều quốc gia và cần sự phối hợp ứng phó ở cấp độ toàn cầu.  Tổng giám đốc của WHO đã chấp thuận đề xuất của Ủy ban khẩn cấp nâng cấp cảnh báo lên cao nhất theo Điều lệ y tế quốc tế và công bố COVID-19 là tình trạng khẩn cấp về y tế gây quan ngại quốc tế.

Ngày 5/5/2023, Tổ chức Y tế thế giới đã có công bố kết thúc tình trạng khẩn cấp về y tế gây quan ngại toàn cầu theo đề xuất của Ủy ban khẩn cấp của WHO, căn cứ vào một số lý do dưới dây:

23_11_2022 WHo phat bieu 4.JPG

Tiến sĩ Angela Pratt - Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam

Thứ nhất, dựa trên tình hình dịch tễ học về xu hướng giảm trên toàn cầu trong thời gian gần đây về số ca tử vong, số ca nhập viện, đặc biệt là giảm số ca phải chăm sóc tích cực (ICU). Hiện tại, phân tích dữ liệu của chúng tôi cũng cho thấy không có sự gia tăng mức độ nghiêm trọng về lây truyền dịch bệnh đối với các biến thể đang lưu hành. Đã 3,5 năm qua kể từ khi đại dịch bắt đầu, chúng ta đã có miễn dịch cộng đồng cao nhờ tiêm vắc xin phòng COVID-19 và miễn dịch tự nhiên do số ca mắc COVID-19 trong cộng đồng rất nhiều. Và đó là một lý do rất quan trọng để WHO đưa ra quyết định chấm dứt tình trạng khẩn cấp của COVID-19.

Thứ hai, đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi những công cụ để ứng phó và phòng, chống COVID-19. COVID-19 không còn là sự kiện chưa từng có tiền lệ nữa, vi rút đã và đang tồn tại. Chính vì vậy, thay vì quản lý theo tình trạng khẩn cấp, chúng ta cần chuyển hướng sang quản lý dài hạn và bền vững cùng với các bệnh truyền nhiễm khác.

Nhưng có một điểm tôi muốn nhấn mạnh là, việc chấm dứt tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu đối với COVID-19 không có nghĩa rằng đã chấm dứt đại dịch hoặc COVID-19 không còn là mối đe dọa trên toàn cầu hay ở Việt Nam. Một ví dụ chúng ta có thể thấy rõ là đang có sự gia tăng số ca mắc gần đây ở Việt Nam. Việc công bố này cũng không có nghĩa là vi rút đã biến mất hay là COVID-19 đã trở nên ít nguy hiểm hơn. Và điều chắc chắn là chúng ta không được mất cảnh giác, và đây cũng là điều mà Tổng giám đốc WHO cũng đã rất nhấn mạnh ở trong buổi họp báo vào thứ Sáu tuần trước, đó là “Điều tồi tệ nhất mà bất kỳ quốc gia nào có thể làm lúc này là sử dụng tin tức này làm lý do để mất cảnh giác, dỡ bỏ các hệ thống mà họ đã xây dựng hoặc gửi đi thông điệp tới người dân rằng COVID-19 không có gì phải lo lắng”.

Về câu hỏi: “Có nên coi COVID-19 như bệnh cúm mùa?” Tôi xin đưa ra ba luận điểm như sau:  Thứ nhất, tôi đồng ý rằng có những điểm tương đồng giữa cúm mùa với bệnh COVID-19, đó là cả hai bệnh này đều do tác nhân gây bệnh đường hô hấp.

Tuy nhiên, với hai luận điểm tiếp theo, tôi sẽ thận trọng về việc có nên coi COVID-19 là bệnh theo mùa: Đầu tiên, từ tất cả các đợt bùng phát ở các quốc gia, chúng ta thấy rằng COVID-19 không theo mùa, trong khi cúm mùa thường xuất hiện vào mùa đông. Thứ hai, tôi muốn nhắc nhở để chúng ta nhớ rằng, COVID-19 vẫn là một căn bệnh còn rất mới với chúng ta. Trong khi các nhà khoa học trên thế giới đã có hàng thập kỷ nghiên cứu về cúm mùa, từ các dữ liệu dịch tễ học, dự đoán được cách thức hoạt động, biến đổi của vi rút, và vi rút ảnh hưởng khác nhau với nhóm dân số khác nhau như thế nào. Với COVID-19, chúng ta mới có hơn ba năm nghiên cứu về nó. Như vậy có thể nói rằng quá sớm để nói chúng ta có thể dự đoán được cách thức hoạt động, biến đổi của COVID-19 trong tương lai. Chính vì vậy, việc công bố kết thúc tình trạng khẩn cấp của đại dịch không có nghĩa là COVID-19 đã kết thúc. Đây chỉ là một tín hiệu rằng chúng ta cần chuyển hướng sang quản lý bền vững COVID-19.

WHO đánh giá như thế nào về các biện pháp phòng chống dịch mà Việt Nam đã và đang thực hiện?

Trước hết, chúng tôi đánh giá rất cao các biện pháp ứng phó của Việt Nam đối với đại dịch COVID-19, đặc biệt là ngay từ khi đại dịch vừa mới bùng phát. Ngay từ thời điểm đó, Việt Nam đã có sự điều chỉnh hết sức hợp lý trong cả các biện pháp y tế công cộng cũng như các biện pháp xã hội khác để đảm bảo phòng, chống COVID-19 hiệu quả, bao gồm:

- Năng lực rất mạnh mẽ về phát hiện và đáp ứng sớm.

- Năng lực giám sát tốt. Điều này rất quan trọng trong việc ứng phó với các đợt bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm mới.

- Các biện pháp kiểm soát biên giới mạnh mẽ và giãn cách xã hội khi cần thiết.

- Cộng đồng tuân thủ tốt các biện pháp bảo vệ cá nhân – ví dụ như đeo khẩu trang – cũng như tuân thủ giãn cách xã hội khi cần thiết.

- Và trên hết là năng lực hệ thống y tế tốt, có khả năng tăng cường quy mô và chuẩn bị sẵn sàng cho sự gia tăng đột biến số ca mắc.

Thông qua tất cả các biện pháp này, Việt Nam đã làm rất tốt trong việc giữ cho số lượng ca mắc và tỉ lệ tử vong tương đối thấp trong giai đoạn đầu của đại dịch cho đến khi có vắc xin. Và khi có vắc xin, Việt Nam đã xuất sắc thực hiện triển khai tiêm chủng vắc xin. Tốc độ và quy mô của việc triển khai tiêm chủng là vô cùng ấn tượng, đặc biệt là nỗ lực đảm bảo rằng vắc xin đến được với tất cả mọi người ở mọi miền trên đất nước. Đây chính là một trong những câu chuyện thành công về ứng phó với COVID-19 của Việt Nam mà WHO thường nêu bật và lan tỏa.

Nhìn chung, chúng tôi đánh giá rất cao khả năng ứng phó với đại dịch của Việt Nam.

Tuy nhiên, có một điều mà tôi muốn nhấn mạnh, đó là bây giờ không phải là lúc để thư giãn và buông lỏng cảnh giác.

Trên thực tế, Việt Nam đã bắt đầu quá trình chuyển đổi sang “quản lý bền vững” vi rút cách đây 18 tháng. Chúng ta nên nghĩ về cách quản lý vi rút dài hạn, thay vì ứng phó khẩn cấp, và bây giờ không phải là lúc để nới lỏng bất kỳ biện pháp chống dịch nào, đặc biệt là khi chúng ta đang chứng kiến sự gia tăng số ca mắc bệnh, số ca nhập viện, số ca phải chăm sóc đặc biệt (ICU), mặc dù số ca tử vong cho đến nay không tăng đột biến. Đó là kết quả của việc đạt được tỉ lệ miễn dịch cộng đồng rất cao, cũng như những nỗ lực đáng kinh ngạc của các nhân viên y tế.

Vì vậy, câu trả lời ngắn gọn cho câu hỏi trên đó là chúng tôi đánh giá rất cao công tác ứng phó của Việt Nam. Điều quan trọng bây giờ là đảm bảo rằng chúng ta đã tiếp thu tất cả các bài học chống dịch trong 3,5 năm qua, tiếp tục áp dụng những bài học đó khi chúng ta lên kế hoạch về việc quản lý COVID-19 lâu dài trong tương lai.

WHO khuyến nghị gì cho Việt Nam trong công tác phòng chống dịch COVID-19 trong thời gian tới?

Là một phần của quá trình chuyển đổi sang quản lý dài hạn hơn đối với COVID-19 và chấm dứt tình trạng khẩn cấp về y tế công cộng gây quan ngại toàn cầu, WHO đã đưa ra 7 khuyến nghị cho các quốc gia. Tôi sẽ nói về chúng một cách khái quát trước, rồi sau đó sẽ đề cập cụ thể hơn về những vấn đề liên quan đến Việt Nam.

Một là, chúng ta phải duy trì những thành tựu đã đạt được và những đầu tư mà chúng ta đã thực hiện trong việc ứng phó với bệnh truyền nhiễm thông qua COVID-19, rút ra những bài học trong ba năm rưỡi qua và áp dụng những điều đó vào cách chúng ta ứng phó với COVID trong tương lai, cũng như để chuẩn bị cho mối đe dọa đến từ các bệnh truyền nhiễm mới nổi khác.

Vì vậy, thông điệp số một là chúng ta không được nghỉ ngơi vào lúc này, không được rời chân khỏi bàn đạp và không được mất cảnh giác, mà chúng ta cần phát huy mọi thứ chúng ta đã làm và học được trong vài năm qua.

Hai là,về tiêm chủng - đã đến lúc chúng ta cần phải nghĩ về việc tích hợp tiêm phòng COVID vào các chương trình tiêm chủng thường quy hoặc đôi khi chúng ta vẫn gọi là các chương trình tiêm chủng ‘suốt đời’, bởi vì COVID sẽ còn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta trong tương lai gần, vì vậy chúng ta sẽ cần đảm bảo rằng mọi người được miễn dịch thông qua chương trình tiêm chủng thường xuyên.

Và điều quan trọng đối với Việt Nam về tiêm chủng hiện nay là độ bao phủ của các liều nhắc lại. Chúng ta đều biết Việt Nam có độ bao phủ rất tốt đối với liều cơ bản nhưng độ bao phủ của mũi nhắc lại thứ nhất và thứ hai lại không như mong đợi, đặc biệt là khi hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt với sự gia tăng các ca nhiễm mới.

Chính vì vậy, chúng ta cần đảm bảo rằng tất cả những người đủ điều kiện, tất cả những người thuộc nhóm có nguy cơ cao đều đã được tiêm liều nhắc lại – đây là ưu tiên quan trọng nhất hiện nay.

Ba là, về công tác giám sát. Đã đến lúc tích hợp giám sát COVID với giám sát các mầm bệnh đường hô hấp khác, và tiếp tục báo cáo dữ liệu đó cho WHO.

Một số điều cần nhấn mạnh ở đây là:

+ Một là, giám sát bộ gen hoặc giải trình tự gen, tức là xét nghiệm các mẫu khác nhau để xác định một người bị nhiễm biến thể nào của COVID. Điều này thực sự quan trọng để chúng ta có thể tiếp tục theo dõi hành vi của các biến thể khác nhau và chúng có thể ảnh hưởng đến mọi người theo những cách khác nhau như thế nào, vì điều này sẽ xác định cách chúng ta cần ứng phó trong tương lai.

+ Hai là, chúng ta cần sử dụng dữ liệu đó về COVID để theo dõi cẩn thận bất kỳ thay đổi nào về khả năng lây truyền – có nghĩa là mức độ lây nhiễm và mức độ nghiêm trọng của bệnh – liệu nó có khiến nhiều người mắc bệnh hơn, nhiều người tử vong hơn không? Liệu chúng ảnh hưởng khác nhau thế nào đến các nhóm người khác nhau.

Và thông qua việc xem xét cả hai điều trên - khả năng lây truyền và mức độ nghiêm trọng, chúng ta sẽ xem xét tác động tổng thể mà vi rút đang gây ra. Vì vậy, việc tiếp tục theo dõi và giám sát là rất quan trọng.

Bốn là, đảm bảo chúng ta có nguồn cung cấp vắc xin tốt, chẩn đoán và điều trị tốt. Có nghĩa là cần đảm bảo các công cụ mà chúng ta cần để chẩn đoán, các loại thuốc mà chúng ta hiện có sẵn để điều trị và các loại vắc xin để ngăn ngừa bệnh nặng và giảm khả năng tử vong. Tất cả những công cụ này đều được cung cấp ở Việt Nam và các quốc gia khác trong trường hợp khẩn cấp, vì vậy giờ là lúc xem xét khung pháp lý, chuỗi cung ứng để đảm bảo rằng chúng ta có nguồn cung cấp đáng tin cậy trong tương lai và những sản phẩm này có sẵn cho người dân. Lý tưởng nhất là chúng vẫn được cung cấp miễn phí hoặc được trợ cấp phần lớn để đảm bảo chi phí không phải là rào cản để tiếp cận những sản phẩm này.

Năm là, tiếp tục làm việc, gắn kết sự tham gia và truyền thông tới các cộng đồng. Một trong những đặc điểm chính giúp Việt Nam ứng phó thành công đó chính là cách cộng đồng có thể tham gia và sẵn sàng hỗ trợ các biện pháp y tế cộng đồng và xã hội khác nhau. Chúng ta cần tiếp tục làm việc này với cộng đồng để có thể quản lý COVID thành công trong dài hạn. Vì vậy, bây giờ không phải là lúc để ngừng truyền thông tới cộng đồng hoặc ngừng nói chuyện với công chúng về vai trò của họ trong việc giảm lây truyền và đặc biệt là bảo vệ những người dễ bị tổn thương. Chúng ta rất cần duy trì sự tham gia mạnh mẽ và truyền thông tới cộng đồng.

Sáu là, về các biện pháp liên quan đến đi lại. VN thực chất đã dỡ bỏ hoàn toàn các biện pháp hạn chế đi lại từ tháng 3/2022 khi hướng tới quản lý bền vững COVID-19. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục rà soát và cập nhật kế hoạch đáp ứng quốc gia và sẵn sàng, linh hoạt, và nếu cần thiết có thể tái thiết lập các biện pháp y tế công cộng và xã hội, dựa trên tình hình dịch và đánh giá nguy cơ.

Bảy là, tiếp tục hỗ trợ nghiên cứu về cả hiệu quả và hiệu suất của vắc xin, cũng như tình trạng hậu COVID - hay đôi khi chúng ta còn gọi là "COVID kéo dài".

Trên đây là 7 khuyến nghị chung từ WHO đến các quốc gia tại thời điểm này.

Điều cuối cùng tôi muốn nói trong bối cảnh tình hình hiện nay ở Việt Nam – trong giai đoạn mà các ca nhiễm đang có xu hướng gia tăng như hiện nay - là chúng ta thực sự cần tiếp tục theo dõi sát sao, chúng ta nên lưu ý rằng có thể cần điều chỉnh các biện pháp ứng phó và theo dõi chặt chẽ các cơ sở khám chữa bệnh và. Đặc biệt là chúng ta cần giám sát chặt chẽ năng lực các cơ sở và chăm sóc đặc biệt (ICU) để đảm bảo rằng các cơ sở và nhân viên y tế không bị quá tải. Chúng ta không muốn quay trở lại tình trạng mà các quốc gia phải trải qua vài năm trước - vì vậy tất cả những điều trên thực sự rất quan trọng ngay tại thời điểm hiện tại khi mà số ca mắc đang gia tăng tại Việt Nam.

Điểm cuối cùng chính là WHO cam kết sẽ luôn luôn đồng hành cùng Việt Nam, cụ thể ở đây là Bộ Y tế trong công cuộc phòng, chống, kiểm soát và quản lý lâu dài dịch bệnh COVID-19.

Nguyễn Trang

comment Bình luận

largeer