Nguyên nhân và cách điều trị hạ huyết áp thế đứng

Đã bao giờ bạn cảm thấy hoa mắt chóng mặt khi đứng lên chưa? Bạn phải mất đến vài phút để ổn định lại trạng thái bình thường? Hãy tìm hiểu nguyên nhân ở bài viết dưới đây.
24/01/2022 09:50

Nguyên nhân hạ huyết áp thế đứng

Hạ huyết áp thế đứng là tình trạng giảm áp suất máu quá mức khi ở tư thế đứng. Định nghĩa hạ huyết áp tư thế được đồng thuận nhất là mức suy giảm huyết áp tâm thu > 20 mm Hg, hoặc mức suy giảm huyết áp tâm trương > 10 mm Hg, hoặc cả hai. Các triệu chứng có thể có như ngất, choáng váng, hoa mắt chóng mặt, lú lẫn hoặc nhìn mờ xảy ra trong vài giây đến vài phút khi đứng và biến mất nhanh chóng khi nằm xuống. Một số bệnh nhân còn có biểu hiện choáng, ngất hoặc co giật toàn thân. Tập luyện gắng sức hoặc ăn nhiều dinh dưỡng có thể làm các triệu chứng trầm trọng hơn.

ha-huyet-ap-khi-dung-2

(Ảnh minh họa)

Hạ huyết áp thế đứng là một đặc đặc điểm lâm sàng của sự điều hòa huyết áp bất thường trong một số tình trạng, không phải là một rối loạn cụ thể. Các bằng chứng ngày càng cho thấy rối loạn kiểm soát huyết động học tư thế làm tăng nguy cơ tim mạch và tất cả điều này dẫn đến tử vong,

Hội chứng nhịp nhanh tư thế (POTS)

POTS ((còn có tên là hội chứng nhịp nhanh tự động tư thế hoặc hội chứng rối loạn dung nạp tư thế bẩm sinh) là một hội chứng rối loạn dung nạp tư thế xuất hiện ở người trẻ tuổi. POTS được định nghĩa bởi nhịp tim ≥ 120 beats/minute hoặc tăng lên khoảng ≥ 30 beats/minute khi bệnh nhân chuyển từ tư thế nằm ngửa sang tư thế đứng. Một số triệu chứng (mệt mỏi,hoa mắt chóng mặt, kém dung nạp khi tập luyện và suy giảm nhận thức) và nhịp nhanh xảy ra sau khi đứng, tuy nhiên trường hợp này huyết áp thay đổi ít hoặc không. Nguyên nhân của các triệu chứng này chưa rõ.

Sinh lý bệnh của hạ huyết áp thế đứng

Thông thường, stress áp lực trọng trường khi đứng lên đột ngột làm một khối lượng lớn máu (½ đến 1 lít) bị giữ lại ở các tĩnh mạch ở chi dưới và thân. Hiện tượng này xảy ra thoáng qua, gây giảm hồi lưu tĩnh mạch, làm giảm cung lượng tim và dẫn đến hạ huyết áp. Để đáp ứng với tình trạng này, thụ thể cảm áp ở cung đm chủ và xoang cảnh tự động hoạt hóa các phản xạ để đưa huyết áp trở lại bình thường. Hệ thống thần kinh giao cảm làm tăng nhịp tim, tăng co bóp tim và tăng trương lực vận mạch. Hiện tượng ức chế thần kinh kinh đối giao cảm cũng xảy ra cùng lúc để làm tăng nhịp tim. Ở hầu hết các trường hợp, những thay đổi về huyết áp và nhịp tim khi thay đổi tư thế đều ở mức độ nhẹ và thoáng qua, ít khi xuất hiện triệu chứng.

Nếu vẫn giữ nguyên tư thế đứng, hệ thống renin-angiotensin-aldosterone sẽ hoạt hoạt động và vasopressin (ADH) sẽ được bài tiết ra gây giữ nước và Natri để tăng thể tích tuần hoàn.

Điều trị hạ huyết áp thế đứng

Bệnh nhân bất động kéo dài tại giường nên tập ngồi dậy mỗi ngày và tập luyện tại giường khi có thể. Bệnh nhân nên chuyển từ nằm hoặc ngồi sang tư thế đứng một cách từ từ, uống đủ nước, hạn chế hoặc tránh uống rượu, và tập luyện đều đặn khi có thể. Tập luyện thường xuyên với cường độ thấp làm gia tăng trương lực thành mạch và giảm bớt hiện tượng ứ máu tĩnh mạch. Bệnh nhân cao tuổi nên tránh đứng lâu. Ngủ tư thế nằm đầu cao có thể làm giảm triệu chứng thông qua việc tăng tái hấp thu natri và giảm tiểu đêm.

Phòng tránh hiện tượng hạ huyết áp tư thế sau bữa ăn bằng cách giảm số lượng và hàm lượng carbohydrate trong bữa ăn, giảm thiểu lượng cồn, và tránh đứng đột ngột sau bữa ăn.

Mặc quần bó với chất liệu co giãn tốt có thể giúp tăng hồi lưu tĩnh mạch, tăng cung lượng tim và tăng huyết áp sau khi thay đổi tư thế. Đối với những bệnh nhân mức độ nặng, có thể cân nhắc sử dụng bộ đồ kháng trọng lực kiểu hàng không. Dù có mức dung nạp kém, nhưng nó có thể giúp tạo ra mức kháng áp lực vừa đủ tại chân và ổ bụng.

Việc tăng natri và lượng nước đưa vào có thể làm tăng thể tích nội mạch và làm thuyên giảm các triệu chứng. Nếu không có suy tim hoặc tăng huyết áp, lượng muối ăn vào có thể tăng lên tới 6 đến 10g mỗi ngày, bằng cách sử dụng các thực phẩm chế biến với muối, hoặc dùng viên natri clorid. Phương pháp này có thể làm gia tăng nguy cơ suy tim, đặc biệt ở bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân suy giảm chức năng của cơ tim. Phương pháp này không chống chỉ định với các trường hợp phù không do suy tim.

Theo Y học thực hành

comment Bình luận

largeer