Cách phòng tránh bệnh thiếu máu, thiếu sắt

Bệnh thiếu máu thiếu sắt là bệnh lý rất phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), ước tính có 7% trẻ mới biết đi, 4-5% trẻ em, 9-16% phụ nữ có kinh nguyệt và 2% nam giới tuổi dậy thì và trưởng thành bị thiếu sắt, với tỷ lệ nhỏ hơn dẫn đến thiếu máu.
10/10/2022 10:04

Người lớn trên 65 tuổi có tỷ lệ thiếu sắt cao hơn, từ 12-17%. Tình trạng thiếu sắt phổ biến ở các nước đang phát triển, với tỷ lệ mắc từ 30-70%.

Thiếu máu thiếu sắt là gì?

Thiếu máu là tình trạng có quá ít tế bào hồng cầu lưu thông. Nguyên nhân thường gặp nhất là do thiếu sắt; lượng sắt trong cơ thể không đủ dẫn đến giảm sản xuất hồng cầu. 

Thiếu máu thiếu sắt xảy ra do cơ thể không đủ sắt đáp ứng nhu cầu tạo hồng cầu vì những nguyên nhân khác nhau. Các triệu chứng thường không đặc hiệu, bao gồm suy nhược, mệt mỏi, khó chịu, thay đổi tâm trạng, đau đầu, nhanh mệt khi tập thể dục, giảm cảm giác thèm ăn (đặc biệt là ở trẻ em), xanh xao (ở những người có sắc tố sẫm màu, xanh xao có thể thấy rõ ở các bề mặt màng cứng và lòng bàn tay), hơi thở và hội chứng chân không yên. 

Empty

Nguyên nhân phổ biến nhất của thiếu sắt là do mất máu, thường là do rong kinh hoặc xuất huyết tiêu hóa. Tình trạng này cũng có thể do ăn uống không đủ sắt, tăng sử dụng sắt do tăng trưởng nhanh (như ở trẻ sơ sinh, thanh thiếu niên và phụ nữ mang thai), kém hấp thu (ví dụ, bệnh celiac hoặc đã phẫu thuật dạ dày trước đó), cắt tĩnh mạch, tán huyết, hoặc các trường hợp hiếm gặp khác như luyện tập thể thao cường độ cao. 

Chẩn đoán

Chẩn đoán thiếu máu do thiếu sắt thường dựa vào xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu ngoại vi, nồng độ hematocrit và hemoglobin thấp dưới ngưỡng bình thường; xét nghiệm ferritin huyết thanh, phản ánh tổng lượng sắt dự trữ trong cơ thể, cân nhắc xét nghiệm transferrin (thường được đo gián tiếp bằng tổng khả năng gắn kết với sắt, tăng cao khi thiếu sắt) và sắt huyết thanh.

Điều trị bệnh thiếu máu, thiếu sắt

Nguyên tắc điều trị

– Chỉ truyền máu trong trường hợp thiếu máu nặng, mất bù.

– Bổ sung các dạng chế phẩm sắt bằng truyền tĩnh mạch hoặc dung dịch uống, viên nén, khuyến khích sử dụng thuốc bổ sung sắt dạng uống.

Empty

– Chỉ định sử dụng sắt đường truyền tĩnh mạch trong các trường hợp:

+ Thiếu máu thiếu sắt nặng, rất nặng;

+ Cơ thể không hấp thu được sắt khi dùng dạng uống: Cắt đoạn ruột, dạ dày, bệnh bẩm sinh;

+ Thiếu máu trong khi bệnh mạn tính hoặc viêm nhiễm đang tiến triển.

– Giai đoạn sớm khi mới thiếu sắt chưa thiếu máu: Bổ sung sắt qua thức ăn và uống các chế phẩm chứa sắt.

– Thời gian bổ sung sắt: Kéo dài, nên tiếp tục bổ sung sắt thêm ba tháng sau khi lượng huyết sắc tố trở đã về bình thường.

– Phối hợp với điều trị nguyên nhân: Cần tìm được nguyên nhân gây thiếu sắt để điều trị đồng thời với điều trị thiếu máu thiếu sắt.

Phòng bệnh thiếu máu, thiếu sắt

– Bổ sung sắt trong suốt thời kỳ mang thai.

Theo khuyến cáo WHO năm 2011 ta có:

Đối với phụ nữ có thai, liều bổ sung là 60mg sắt và 400 µg folic acid mỗi ngày trong suốt thời gian có thai.

Sau khi sinh bổ sung tiếp 3 tháng với liều tương tự như khi có thai đối với phụ nữ cho con bú.

Bổ sung sắt định kỳ cho phụ nữ không mang thai: bổ sung sắt/acid folic mỗi tuần 1 viên trong 3 tháng, 3 tháng nghỉ, sau đó tiếp tục bổ sung 3 tháng. Nếu khả thi, lặp lại chu kỳ này trong năm.

Đối với phụ nữ có thai thiếu máu: bổ sung sắt/acid folic mỗi ngày một viên trong suốt thời gian mang thai

– Nên nuôi trẻ bằng sữa mẹ hoặc sữa bổ sung sắt dành cho trẻ trong năm đầu đời, vì sắt trong sữa mẹ được hấp thu hơn sữa bột.

– Thực hiện chế độ ăn cân đối giàu sắt, vitamin như:

Thịt màu đỏ (thịt bò, thịt trâu…), hải sản, thịt gia cầm, trứng…

Bột bánh mì, đậu, lạc, các loại rau xanh đậm như rau ngót, dền, muống,…

Kết hợp các loại thực phẩm khác nhau làm cho bữa ăn cân đối hơn về giá trị và vi chất dinh dưỡng.

Làm tăng hấp thu sắt bằng uống nước hoa quả như cam, chanh khi ăn thức ăn nhiều sắt.

– Không nên uống trà, cà phê ngay sau ăn.

– Các bệnh nhiễm ký sinh trùng, sốt rét, nhiễm trùng cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh lý thiếu máu do thiếu sắt. Trong đó có nhiễm ký sinh trùng đường ruột gây tác hại lớn nhất cho cơ thể. Do đó, cần tẩy giun định kỳ hàng năm bằng Mebendazol và Albendazol, đặc biệt cho phụ nữ và trẻ em trên 2 tuổi. Thường xuyên vệ sinh môi trường, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh…

– Người bệnh thiếu máu thiếu sắt nên thực hiện theo chế độ ăn được chuyên gia dinh dưỡng tư vấn.

Một số lưu ý đặc biệt khác cho người thiếu máu, thiếu sắt

Các nguồn cung cấp chất sắt lành mạnh bao gồm rau xanh và các loại đậu 

Empty

Mặc dù vẫn tồn tại lầm tưởng cho rằng thịt là nguồn cung cấp sắt được ưa thích, nhưng một chế độ ăn chay cân bằng bao gồm các loại đậu, ngũ cốc tăng cường hoặc ngũ cốc nguyên hạt, trái cây sấy khô, các loại hạt  và rau xanh cũng dễ dàng cung cấp đầy đủ chất sắt.  

Các sản phẩm từ sữa và trứng là những nguồn rất nghèo sắt và làm giảm khả năng hấp thụ sắt 

Casein từ sữa và một số dạng canxi ức chế sự hấp thu sắt. Ngoài ra, trẻ bị dị ứng với sữa bò có thể đặc biệt dễ bị mất máu đường ruột do tác dụng kích thích của các sản phẩm từ sữa.  Để cải thiện sự hấp thụ, tránh ăn các thực phẩm giàu sắt hoặc thực phẩm bổ sung sắt cùng lúc với các thực phẩm hoặc thực phẩm bổ sung có nhiều canxi.

Trái cây và rau quả giúp hấp thu sắt nonheme

Trái cây và rau quả chứa vitamin C và các axit hữu cơ (ví dụ, axit xitric) giữ cho sắt ở dạng khử, làm tăng sự hấp thụ sắt nonheme khi được tiêu thụ trong cùng một bữa ăn.  Vitamin A và carotenoid cũng có tác dụng tăng cường hấp thu sắt bằng cách khắc phục tác dụng ức chế của polyphenol và phytat (có trong ngũ cốc nguyên hạt) đối với sự hấp thụ sắt. Thêm vitamin A vào chế độ bổ sung sắt cũng đã được chứng minh là làm giảm thiếu máu nhiều hơn so với chỉ bổ sung sắt. 

Không nên uống trà, cà phê và ca cao trong bữa ăn nếu nghi ngờ tình trạng thiếu sắt 

Polyphenol và tannin trong những đồ uống này ức chế sự hấp thu sắt nonheme. 

Bổ sung đầy đủ chất sắt trước khi mang thai có thể giúp ngăn ngừa thiếu máu ở cả bà mẹ và trẻ sơ sinh 

Thiếu sắt phổ biến hơn ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt là trong thời kỳ mang thai.  Nhu cầu sinh lý về sắt tăng gần gấp 10 lần trong thời kỳ mang thai và cho con bú, và thiếu sắt trong tam cá nguyệt đầu tiên dẫn đến các chỉ số về tăng trưởng, phát triển thần kinh và hành vi của thai nhi kém hơn đáng kể so với những gì xảy ra khi người mẹ có tình trạng đủ sắt. Ở những bà mẹ bị thiếu sắt, việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn thường dẫn đến tình trạng thiếu sắt ở trẻ sơ sinh. Nếu không có lượng sắt dự trữ đầy đủ trước khi thụ thai, có thể cần bổ sung sắt trong thời kỳ mang thai.

Sữa mẹ có chứa chất sắt đáng kể 

Việc nuôi con bằng sữa mẹ được ưu tiên hơn do chất sắt trong sữa mẹ dễ hấp thu hơn so với chất sắt trong sữa công thức làm từ đậu nành hoặc sữa động vật.

Thiếu máu do thiếu sắt thường có thể phòng ngừa và điều trị được. Một chế độ ăn uống bổ sung ngũ cốc hoặc ngũ cốc nguyên hạt, các loại đậu, quả hạch và trái cây và rau quả có thể cung cấp sự cân bằng chất sắt lành mạnh. Trong thời gian nhu cầu sắt tăng lên hoặc khi đã chẩn đoán thiếu sắt, có thể cần bổ sung sắt. Các xét nghiệm máu đơn giản có thể đánh giá chính xác tình trạng sắt của một người. Nếu bạn có dấu hiệu nghi bị thiếu máu thiếu sắt, hãy đến khám tại cơ sở y tế tin cậy để được chẩn đoán và tư vấn.

Điều dưỡng Bùi Thị Lan, điều dưỡng Phạm Thị Thanh Huế 

Khoa Huyết học lâm sàng Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

comment Bình luận

largeer