Tiềm năng phát triển ngành dược liệu ở Việt Nam

Với quy mô dân số khoảng 98,5 triệu người, trong đó 63% dân số sống ở vùng nông thôn luôn sử dụng y học cổ truyền hoặc thuốc từ thảo dược để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, Việt Nam được dự báo là một thị trường tiêu thụ dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu rất lớn.
23/05/2022 17:49

Để khai thác rõ hơn những thế mạnh của ngành dược liệu Việt Nam, TS. Nguyễn Thiện Trưởng - Phó Chủ tịch thường trực Hội Giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam đã có báo cáo tham luận với chủ đề “Tiềm năng phát triển ngành dược liệu ở Việt Nam” tại hội thảo khoa học “Bảo tồn, phát triển và sử dụng nguồn dược liệu vì sức khỏe cộng đồng” do Hội Giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam phối hợp với Công ty Cổ phần Ao Vua tổ chức ngày 23/4/2022, tại Khu du lịch Ao Vua (xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, TP. Hà Nội).

Tiềm năng của cây thuốc Việt Nam

Việt Nam nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa nóng ẩm với 3/4 diện tích phần lục địa là đồi núi, trải dài từ Bắc xuống Nam, những điều kiện tự nhiên như vậy đã thực sự ưu đãi cho nước ta một hệ thống sinh thái rừng phong phú và đa dạng với hơn 5.117 loài thực vật và nấm, 408 loài động vật và 75 loại khoáng vật có công dụng làm thuốc; trong đó, gần 90% là cây thuốc mọc tự nhiên và chỉ 10% là được trồng. Các cây thuốc phân bố rộng khắp cả nước với 8 vùng trọng điểm là Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Đông Trường Sơn, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long; tập trung chủ yếu ở 5 trung tâm đa dạng sinh vật là Bạch Mã, Lâm Viên, Hoàng Liên Sơn, Cúc Phương, Yok Đôn và Cát Tiên. Sự đa dạng sinh học về cây thuốc luôn có mối tương quan chặt chẽ với sự đa dạng về bản sắc văn hoá dân tộc và tri thức y dược học của mỗi quốc gia. Việt Nam là ngôi nhà chung của 54 dân tộc anh em mà phần lớn vùng trồng cây dược liệu lại  là các vùng dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc lại có tập quán, tiềm năng, lợi thế về phát triển dược liệu với các loài cây dược liệu và vốn tri thức bản địa quý giá riêng có của mình, trong đó có nhiều loại cây dược liệu quý, hiếm có giá trị y dược rất cao - đây thực sự là một kho tàng vô giá để tạo ra các sản phẩm thuốc góp phần quan trọng cho việc bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân và phát triển kinh tế xã hội.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Theo Bộ Y tế, với gần 200 loài cây dược liệu có tiềm năng khai thác và phát triển trồng để đáp ứng nhu cầu sử dụng trong nước và hướng tới xuất khẩu (như Quế, Hồi, Hòe, Nghệ, Actiso, Sa nhân, Kim tiền thảo, Đinh lăng, Thảo quả…), trong đó, có nhiều loài dược liệu được xếp vào loại quý hiếm trên thế giới như: Sâm Ngọc Linh, Tam thất hoàng, Bách hợp, Thông đỏ… trong đó, Sâm Ngọc Linh (hay sâm Việt Nam) là một trong những loại Sâm có hàm lượng saponin nhiều nhất, cao hơn cả những loại sâm quý được nghiên cứu sử dụng lâu đời trên thế giới như Sâm Triều Tiên, Sâm Trung Quốc. Với tiềm năng, thế mạnh về dược liệu như nêu trên, nhưng hiện nay Việt Nam mới chỉ chủ động được 25% nhu cầu, còn lại 75% nhu cầu vẫn phải phụ thuộc nguồn nhập khẩu (Chủ yếu từ Trung Quốc và Indonesia). Mỗi năm Việt Nam dùng khoảng 60.000 - 80.000 tấn dược liệu cho sản xuất thuốc và chữa bệnh nhưng trong đó gần 80% số dược liệu là nhập khẩu từ các nguồn khác nhau trong đó phần lớn là từ Trung Quốc theo đường tiểu ngạch nên chất lượng không đảm bảo[2]. Số liệu thống kê trong năm 2015 cho thấy, trong số gần 50.000 tấn dược liệu được nhập khẩu thì chỉ có 14.000 tấn bảo đảm chất lượng vì được nhập theo đường chính ngạch. Hơn nữa, do dược liệu nhập chủ yếu qua đường tiểu ngạch và được nhập như nông sản nên khó có thể đủ tiêu chuẩn để làm thuốc chữa bệnh, thậm chí có nhiều loại dược liệu, thuốc đông y giả, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, còn bị tẩm ướp các hóa chất bảo quản độc hại, hoặc thêm các tạp chất khác để tăng trọng lượng đang trôi nổi trên thị trường nội địa rất khó kiểm soát…

Thị trường tiêu thụ dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu của Việt Nam là rất lớn

Với quy mô dân số khoảng 98,5 triệu người, trong đó 63% dân số sống ở vùng nông thôn luôn sử dụng y học cổ truyền hoặc thuốc từ thảo dược để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, Việt Nam được dự báo là một thị trường tiêu thụ dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu rất lớn. Theo Bộ Y tế, thuốc từ cây dược liệu trong nước chiếm ít nhất 30% thị phần là rất khiêm tốn, đây có thể nói dư địa cho ngành dược liệu Việt Nam còn rất nhiều cơ hội lớn bởi hệ thống khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền của Việt Nam cũng đang rất phát triển, hiện có 63 bệnh viện y học cổ truyền công lập; 92,7% bệnh viện đa khoa tỉnh có bộ phận y học cổ truyền; khoảng 80% trạm y tế xã có hoạt động khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền và gần 7.000 cơ sở hành nghề y học cổ truyền tư nhân sử dụng dược liệu trong khám chữa bệnh.

Hiện nay, cả nước có khoảng 226 cơ sở sản xuất thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền (trong đó có 131 cơ sở sản xuất qui mô công nghiệp) sử dụng trên 300 loại dược liệu khác nhau với khoảng 80 loại dược liệu được dùng phổ biến. Cả nước hiện cũng có khoảng 1.440 cơ sở sản xuất thực phẩm chức năng với nhu cầu sử dụng dược liệu ước tính khoảng 20.000 tấn mỗi năm. Khối lượng dược liệu xuất khẩu đạt gần 5.000 tấn mang lại giá trị trên 6 triệu USD mỗi năm.

Một thế mạnh nữa của Việt Nam chính là diện tích đất đai rộng lớn và trù phú với lượng nhân công dồi dào, rất phù hợp cho công tác nuôi trồng, thu hái dược liệu. Đặc biệt, giá trị kinh tế mang lại từ việc trồng dược liệu cao hơn hẳn so với các loại cây lương thực khác (cao hơn gấp 5-10 lần trồng lúa). Trồng Đương quy có thể cho thu nhập từ 90-100 triệu đồng/ha/năm, cây Actiso thu nhập từ 60-80 triệu đồng/ha/năm; trong khi đó cây lúa chỉ cho thu nhập từ 20-40 triệu đồng /ha/năm. Vì vậy, phát triển dược liệu đang và sẽ là một hướng bền vững, ổn định góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhiều vùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, núi cao… 

Mặt khác, xu hướng gia tăng việc sử dụng thuốc và các sản phẩm về dược liệu trên thế giới hiện nay đang tạo ra nhiều cơ hội cho ngành dược liệu nước ta phát triển. Những năm qua, Đảng và Nhà nước quan tâm, khuyến khích phát triển công nghiệp dược liệu và y học cổ truyền. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cũng đã cụ thể hóa các chủ trương đường lối của Đảng về phát triển cây dược liệu với chiến lược - Quy hoạch - Chính sách cụ thể nhằm khai thác lợi thế về tiềm năng phát triển dược liệu trong nước, có điều kiện để hình thành và phát triển mạnh ngành công nghiệp dược liệu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay ngành dược liệu phát triển còn chậm, lợi thế của y dược cổ truyền, y học dân tộc còn chưa được phát huy tốt, chưa tương xứng với tiềm năng, giá trị kinh tế tạo ra còn thấp và còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Ngoài những yếu tố khách quan, như: Địa hình nhiều núi cao hiểm trở, khí hậu có thể diễn biến bất thường, điều kiện kinh tế của người dân còn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao, thiếu cơ sở hạ tầng, ruộng đất manh múm, nhỏ lẻ, thị trường đầu ra cho dược liệu chưa ổn định... cũng phải kể đến các yếu tố chủ quan, như: thiếu quy hoạch cho phát triển vùng dược liệu quy mô lớn, công tác bảo tồn nguồn genes chưa đáp ứng được nhu cầu; ứng dụng khoa học - công nghệ trong nuôi trồng, khai thác dược liệu chưa được quan tâm đúng mức, việc khai thác dược liệu chưa hợp lý, khai thác chưa đi đôi với bảo tồn... Số lượng các doanh nghiệp dược còn ít, đa số quy mô còn nhỏ, năng lực cạnh tranh và khả năng tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu còn nhiều hạn chế.

Y học cổ truyền là một kho báu và ngành dược liệu Việt Nam có tiềm năng phát triển rất to lớn, cần chủ động phát huy Tiềm năng - Nội lực với các nhóm vấn đề sau:

Một là: Để chủ động trong lĩnh vực phát triển y dược cổ truyền và đảm bảo y dược cổ truyền giữ được thế mạnh của nền y học Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì chúng ta phải chủ động được nguồn dược liệu. Phát triển dược liệu phải gắn với chuỗi giá trị, chỉ có chuỗi giá trị mới giải quyết được một cách thuận lợi bài toán phát triển đối với bất cứ mặt hàng dược liệu nào; gắn dược liệu với y học cổ truyền cũng như gắn y học hiện đại với y học cổ truyền. Do vậy, Nhà nước phải có một số chính sách đặc thù để phát triển ngành dược, cây dược liệu, công nghiệp dược liệu Việt Nam. 

Hai là: Về nuôi trồng, khai thác, chế biến, sử dụng dược liệu, phải đưa khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến. Đi liền với đó, thúc đẩy vùng chuyên canh quy mô lớn để áp dụng quy trình quản lý chất lượng tiên tiến, công nghệ cao vào nuôi trồng trong đó cốt lõi là Nghiên cứu và hoàn thiện quy trình trồng dược liệu theo các nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc” theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (GACP-WHO).

Ba là: Về sử dụng dược liệu: Bộ Y tế nghiên cứu triển khai mở rộng danh mục thuốc bảo hiểm y tế đối với việc sử dụng dược liệu và thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu. Có cơ chế đặc thù thanh toán cho thuốc Nam, dược liệu tươi dùng trong khám chữa bệnh bảo hiểm y tế. Khuyến khích việc khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền. Đơn giản hóa thủ tục thanh toán, thuận lợi cho người bệnh sử dụng kết hợp thuốc đông y và thuốc tây y tại các tuyến khám chữa bệnh...

Bốn là: Phát triển, khai thác, sử dụng song song với công tác bảo tồn

Bên cạnh những tiềm năng và lợi thế về cây dược liệu, trong quá trình bảo tồn và phát triển các cây thuốc Nam cũng đang gặp phải không ít khó khăn, hạn chế. Trong đó nổi cộm lên là vấn đề quy hoạch đang bị tác động bởi tình trạng nuôi trồng và khai thác dược liệu ở nước ta vẫn còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ dẫn đến sản lượng không ổn định, giá cả biến động (được mùa - mất giá). Việc khai thác quá mức cũng dẫn đến các vấn đề liên quan tới công tác bảo tồn và phát triển nguồn genes bởi số lượng loài cây dược liệu có khả năng khai thác tự nhiên còn rất ít, nhiều loài cây dược liệu quý hiếm trong nước đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt. Cùng với đó, hạn chế về điều kiện kỹ thuật và công nghệ cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng và hiệu quả của cây dược liệu.

Để đưa dược liệu trở thành thế mạnh của ngành Dược Việt Nam, cần tập trung quy hoạch các vùng trồng dược liệu quy mô lớn trên cơ sở khai thác các vùng có lợi thế về điều kiện tự nhiên, thích hợp với sinh trưởng và phát triển. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến để lựa chọn và tạo ra các loại giống dược liệu có năng suất, chất lượng cao đáp ứng tốt yêu cầu sản xuất dược liệu. Đẩy mạnh triển khai thực hiện trồng cây dược liệu (GAP) và thực hành tốt thu hái cây dược liệu hoang dã (GCP) nhằm bảo tồn, phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên Quốc gia, góp phần nâng cao vị thế ngành dược liệu Việt Nam để tiến tới tương đồng về chất lượng, đủ sức cạnh tranh để hòa hợp trong khu vực và trên thế giới.

Việt Nam có tiềm năng to lớn về phát triển dược liệu, có điều kiện để hình thành và phát triển công nghiệp dược liệu. Đặc biệt, vùng dân tộc thiểu số, ngoài thổ nhưỡng, khí hậu thích hợp với dược liệu quý, đồng bào còn sở hữu một kho tàng kinh nghiệm quý báu về chế biến và sử dụng cây thuốc. Vì vậy, cần phát huy tiềm năng dược liệu ở Việt Nam nói chung và ở vùng dân tộc thiểu số nói riêng. Đây cũng là cơ hội cho người dân sống ở vùng nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số tăng thu nhập, thoát nghèo. Ðể giải quyết thực trạng này, các địa phương cần sớm xây dựng quy hoạch vùng dược liệu, biến nguồn tài nguyên này thành tiềm năng, lợi thế chủ lực nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng mối liên kết “bốn nhà”. Trước tiên, phải liên kết giữa nhà Doanh nghiệp và nhà Nông; cần có chính sách ưu đãi đối với việc trồng dược liệu, như hỗ trợ vay vốn, cho thuê đất, miễn giảm thuế, chính sách bao tiêu sản phẩm. Chú trọng vai trò quản lý Nhà nước nhằm bảo đảm hài hòa giữa lợi ích kinh tế cho người dân, doanh nghiệp, vừa phát huy được tiềm năng, lợi thế của vùng dược liệu trong phát triển dược liệu.

Ông Nguyễn Thiện Trưởng

Phó Chủ tịch thường trực Hội Giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam  

comment Bình luận

largeer