Phát triển các vùng trồng dược liệu theo GACP-WHO và một số giải pháp

Các địa phương đã tiếp nhận nhiều tiến bộ KHCN được chuyển giao từ một số đơn vị nghiên cứu để phát triển dược liệu chất lượng cao tại địa phương theo tiêu chí GACP-WHO.
23/12/2022 12:07

Kết quả nghiên cứu được áp dụng trong thực tế thể hiện tính hiệu quả cũng như sự thành công của các nhiệm vụ KHCN. Thông qua Chương trình nông thôn mới, Chương trình nông thôn miền núi (Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2025) cấp Trung ương và Địa phương, Viện Dược liệu hiện đang tham gia hỗ trợ ứng dụng công nghệ, chuyển giao quy trình kỹ thuật nhân giống, trồng và sơ chế hơn 30 loài cây dược liệu cho hơn 25 dự án trong cả nước, tập trung ở vùng Đồng bằng, trung du Bắc Bộ, miền núi phía Bắc, Nam Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên.

Về nhân giống, 100% các dự án này đều sử dụng vườn ươm có mái che để sản xuất cây giống, hạn chế thiệt hại do điều kiện thời tiết và sâu bệnh hại. Một số dự án sử dụng nhà lưới với hệ thống mái che hiện đại và có hệ thống tưới bán tự động như dự án trồng Giảo cổ lam tại Kon Tum, dự án trồng Đinh lăng và Đương quy Nhật Bản tại Đắk Lắk, dự án trồng Đinh lăng tại Ninh Bình.

Về quy trình trồng và sơ chế, 24/25 dự án đã áp dụng tiêu chuẩn GACP-WHO trong các mô hình sản xuất dược liệu với mong muốn tạo ra nguồn dược liệu an toàn cung cấp cho thị trường dược liệu trong nước, đáp ứng nhu cầu cung cấp nguyên liệu sản xuất thuốc an toàn, phục vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Một số dự án đã đưa công nghệ sấy mới vào sơ chế dược liệu, giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất dược liệu sạch như: công nghệ sấy sử dụng năng lượng mặt trời, công nghệ sấy thăng hoa.   

Ở các vùng nông thôn, miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trước đây người dân chủ yếu trồng theo các kỹ thuật truyền thống của địa phương. Các dự án được triển khai trên những địa bàn này đã có tác động đến cách tiếp cận và kỹ thuật của cán bộ dự án và người lao động tham gia vào dự án, đặc biệt là các dự án được triển khai theo GACP – WHO.

 Hiện nay, trên cả nước đã có hơn 60 vùng trồng của gần 40 loài cây dược liệu đã được chứng nhận đáp ứng tiêu chuẩn GACP-WHO với diện tích khoảng hơn 500 ha. Để đáp ứng mục tiêu xây dựng các vùng trồng sản xuất dược liệu ổn định, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu ngày càng tăng đòi hỏi sự vào cuộc tích cực của các tổ chức, cá nhân tham gia vào chuỗi trồng và tiêu thụ dược liệu.

Kết quả nghiên cứu được áp dụng trong thực tế thể hiện tính hiệu quả cũng như sự thành công của các nhiệm vụ KHCN. Thông qua Chương trình nông thôn mới, Chương trình nông thôn miền núi (Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2025) cấp Trung ương và Địa phương, Viện Dược liệu hiện đang tham gia hỗ trợ ứng dụng công nghệ, chuyển giao quy trình kỹ thuật nhân giống, trồng và sơ chế hơn 30 loài cây dược liệu cho hơn 25 dự án trong cả nước, tập trung ở vùng Đồng bằng, trung du Bắc Bộ, miền núi phía Bắc, Nam Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên.

Về nhân giống, 100% các dự án này đều sử dụng vườn ươm có mái che để sản xuất cây giống, hạn chế thiệt hại do điều kiện thời tiết và sâu bệnh hại. Một số dự án sử dụng nhà lưới với hệ thống mái che hiện đại và có hệ thống tưới bán tự động như dự án trồng Giảo cổ lam tại Kon Tum, dự án trồng Đinh lăng và Đương quy Nhật Bản tại Đắk Lắk, dự án trồng Đinh lăng tại Ninh Bình.

Về quy trình trồng và sơ chế, 24/25 dự án đã áp dụng tiêu chuẩn GACP-WHO trong các mô hình sản xuất dược liệu với mong muốn tạo ra nguồn dược liệu an toàn cung cấp cho thị trường dược liệu trong nước, đáp ứng nhu cầu cung cấp nguyên liệu sản xuất thuốc an toàn, phục vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Một số dự án đã đưa công nghệ sấy mới vào sơ chế dược liệu, giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất dược liệu sạch như: công nghệ sấy sử dụng năng lượng mặt trời, công nghệ sấy thăng hoa.   

Ở các vùng nông thôn, miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trước đây người dân chủ yếu trồng theo các kỹ thuật truyền thống của địa phương. Các dự án được triển khai trên những địa bàn này đã có tác động đến cách tiếp cận và kỹ thuật của cán bộ dự án và người lao động tham gia vào dự án, đặc biệt là các dự án được triển khai theo GACP – WHO.

 Hiện nay, trên cả nước đã có hơn 60 vùng trồng của gần 40 loài cây dược liệu đã được chứng nhận đáp ứng tiêu chuẩn GACP-WHO với diện tích khoảng hơn 500 ha. Để đáp ứng mục tiêu xây dựng các vùng trồng sản xuất dược liệu ổn định, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu ngày càng tăng đòi hỏi sự vào cuộc tích cực của các tổ chức, cá nhân tham gia vào chuỗi trồng và tiêu thụ dược liệu.

c4

(Ảnh minh họa)

Một số giải pháp phát triển dược liệu

Giải pháp về chính sách

- Xây dựng cơ chế đặc thù đối với công tác phát triển dược liệu ở địa phương để phục hồi, phát triển các vùng trồng dược liệu truyền thống.

- Rà soát, đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp triển khai nuôi trồng, khai thác và phát triển dược liệu, hỗ trợ chuyển giao xây dựng mô hình sản xuất và mô hình liên kết chuỗi giá trị dược liệu.

- Thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN nhằm tạo động lực cho người tiếp nhận và chuyển giao công nghệ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách trong chuyển giao công nghệ nhằm mang lại hiệu quả cao hơn.

- Khuyến khích, hỗ trợ liên kết vùng để hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, theo dòng sản phẩm nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương, tạo ra các sản phẩm đa dạng, đồng bộ.

Giải pháp về đầu tư và tài chính

- Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng cho các đơn vị triển khai nghiên cứu và sản xuất dược liệu. Ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất theo hướng hàng hóa hiện đại và phù hợp với cách mạng 4.0 trong phát triển dược liệu.

- Hỗ trợ các đơn vị nghiên cứu, doanh nghiệp sản xuất chế biến đổi mới công nghệ nhằm tạo ra các sản phẩm từ dược liệu có sức cạnh tranh trên thị trường.

- Quan tâm và hỗ trợ để huy động nguồn lực cho hoạt động KHCN, ưu tiên nguồn kinh phí cho hoạt động KHCN về dược liệu. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các nhiệm vụ KHCN về lĩnh vực dược liệu.

- Ưu tiên đầu tư nguồn kinh phí cho hoạt động KHCN đối với những đối tượng dược liệu trọng điểm và có lợi thế cạnh tranh của vùng.

Giải pháp về khoa học công nghệ

- Đẩy mạnh nghiên cứu chọn tạo giống, công nghệ sản xuất giống cây dược liệu có năng suất và chất lượng. Tập trung đầu tư vào nhóm cây dược liệu có lợi thế của Vùng, các cây dược liệu thị trường có nhu cầu cao, có giá trị kinh tế cao...

- Nghiên cứu đồng bộ các biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng năng suất các dược liệu mới được chọn tạo tại từng vùng sinh thái, ưu tiên nghiên cứu các biện pháp tiết kiệm đầu vào, tăng hiệu quả, thân thiện môi trường và phát triển bền vững.

- Áp dụng công nghệ tiên tiến trong canh tác dược liệu. Sử dụng các loại phân bón thế hệ mới, nâng cao hiệu quả sử dụng, công nghệ tưới hiện đại (tưới nhỏ giọt, tưới phun sương bán tự động), sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học để đảm bảo an toàn cho cây trồng và người sử dụng. Tiến tới áp dụng công nghệ IoT trong canh tác một số cây dược liệu có giá trị cao.

- Nhân rộng việc áp dụng hướng dẫn của tổ chức Y tế thế giới về thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc (GACP - WHO) trên tất cả vùng trồng dược liệu trong khu vực Tây Nguyên.

- Áp dụng các công nghệ tiên tiến trong sơ chế và bảo quản: Công nghệ sấy lạnh, công nghệ sấy nhiệt vi sóng đảm bảo duy trì được mẫu mã, chất lượng dược liệu..

Giải pháp về nguồn nhân lực

- Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực thực hiện công tác phát triển dược liệu, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh công tác tập huấn, hướng dẫn, trang bị cho cán bộ, người dân địa phương các kiến thức về dược liệu.

- Ưu tiên và có chính sách tốt, khuyến khích đội ngũ tri thức trẻ hoạt động trong lĩnh vực dược liệu công nghệ cao.

Giải pháp về hợp tác phát triển

- Tăng cường hợp tác, tạo liên kết 5 nhà bao gồm nhà Nông, nhà Doanh nghiệp, nhà Khoa học, nhà Quản lý và Ngân hàng thương mại để thúc đẩy ứng dụng các tiến bộ KHCN vào phát triển dược liệu.

- Hợp tác không chỉ giữa các đối tác, các đơn vị, doanh nghiệp trong từng địa phương mà phải lan toả với các địa phương trong vùng và giữa các vùng khác nhau để phát huy tiềm năng, lợi thế của từng thành phần giúp cho việc triển khai các giải pháp KHCN để phát triển dược liệu.

- Đẩy mạnh hợp tác để thu hút nguồn lực đầu tư về vốn, KHCN, thị trường, kinh nghiệm để tạo đột phá trong phát triển dược liệu và tạo ra các sản phẩm có giá trị, có lợi thế cạnh tranh trên thị trường và cùng nhau thúc đẩy thị trường phát triển.

Phan Thúy Hiền - Phó Viện trưởng Viện Dược liệu

comment Bình luận

largeer